Câu chuyện Môi cầu vồng bắt đầu với sự tò mò của nhân vật “tôi” về những chiếc vali cũ đã được bà ngoại và ông cố giữ gìn như báu vật qua bao nhiêu thập kỉ. Trong đó cất giữ những cuốn sách hoen mờ vết ố, con búp bê bạc màu sứt chỉ... như nét khắc họa dấu vết của tháng năm xưa cũ, dẫn chúng ta quay ngược thời gian về 70 năm trước. Mùa hè năm 1939, gia đình Do Thái 4 người: Vera 8 tuổi, Sonia 12 tuổi cùng bố mẹ thực hiện hành trình vượt biển dài nhất trong cuộc đời, đến Hồng Khẩu - Thượng Hải để thoát khỏi sự truy đuổi và bức hại của Đức Quốc xã. Hồng Khẩu là một địa danh có thật ở Thượng Hải, từng là nơi trú ẩn và sinh sống của hàng nghìn người Do Thái trong Thế chiến thứ hai, cũng chính là nguồn gốc tựa đề của cuốn sách. “Môi Cầu Vồng” - cái tên đẹp đẽ và nên thơ đến vậy, lại chính là không gian vây hãm những con người bị tước quyền tự do, trục xuất khỏi quê hương, phải xa rời người thân, gia đình để lưu lạc nơi đất khách quê người. Gia đình Vera đã trải qua 7 năm vô cùng khó khăn và khó quên ở Thượng Hải, để rồi phải chia tay trong sự miễn cưỡng và nuối tiếc với mảnh đất họ coi như quê hương thứ hai sau khi chiến tranh kết thúc. Bảy năm ở Thượng Hải, Vera đã từ một cô bé con hoạt bát và hồn nhiên trở thành một thiếu nữ cởi mở và tự tin, biết dũng cảm vươn lên trong nghịch cảnh, biết sẻ chia, cảm thông và thấu hiểu. Đồng hành cùng cô trong hành trình trưởng thành là những người bạn Trung Quốc dễ thương và tốt bụng mà gia đình Vera đã coi như người nhà: Củ Ấu, Như Dao, bác Triệu, cô thợ may Chiêu Đệ, thím Thẩm và A Tiêu.
Môi cầu vồng không chỉ đơn thuần là một cuốn tiểu thuyết viết về tuổi thơ, đặt trong bối cảnh lịch sử, nó còn là một cuốn tiểu thuyết Do Thái độc đáo theo phong cách Trung Quốc về chiến tranh và nhân loại, tình yêu và sự bảo vệ gia đình, đức tin và sự kiên trì, đạo đức và sự cam kết. Nó mô tả một cách chân thực sự tàn khốc của Thế chiến thứ hai và Đức Quốc xã; sự can đảm và tươi sáng của tuổi thơ trong chiến tranh; sự lạc quan, sức mạnh, lòng dũng cảm, trí tuệ và chủ nghĩa nhân đạo giữa các chủng tộc và quốc tịch. Qua góc nhìn của một gia đình Do Thái lưu vong, toàn bộ khung cảnh và sinh hoạt xã hội Thượng Hải những năm 30, 40 của thế kỉ XX hiện lên chân thực, sống động, vừa xa lạ vừa quen thuộc, với đủ mọi diện mạo, tầng lớp, từ người lao động nghèo đến giai cấp thượng lưu. Thượng Hải những năm tháng đó cũng đang quằn quại, rớm máu dưới sự giày xéo và đàn áp tàn bạo của Phát xít Nhật. Khổ sở và thiếu thốn trăm bề nhưng đó lại chính là nơi duy nhất sẵn sàng dang tay đón nhận 30.000 người Do Thái khỏi sự truy đuổi của Đức Quốc xã. Dù không cùng màu da, sắc tộc hay tiếng nói, người ta vẫn lựa chọn tin tưởng, giúp đỡ và cho đi không hối tiếc. Trên mảnh đất Thượng Hải, những người Do Thái và Trung Quốc đã cùng sát cánh bên nhau vượt muôn ngàn gian khó cho đến ngày quân Nhật đầu hàng. Gấp lại cuốn sách, người đọc thực sự đã hiểu tại sao Thượng Hải lại được mệnh danh là “Con thuyền Nô-ê” của người Do Thái trong những năm tháng lịch sử ấy.
Đây quả thực là câu chuyện quá khứ nhưng ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở sự thể hiện sự kiện lịch sử cách đây hàng chục năm và tố cáo tội ác chiến tranh. Những sự di cư tương tự đã xảy ra vô số lần trong quá trình phát triển của loài người, tạo thành quỹ đạo của toàn bộ quá trình phát triển văn minh nhân loại. Trong quá trình tị nạn và di cư, vô số người dân bình thường như gia đình Vera đã tiến về phía trước với niềm hi vọng và sự kiên trì, dù luôn có người bị tụt lại phía sau trên hành trình khó khăn ấy, nhưng chính sự kiên trì, dũng cảm, đức hi sinh, lòng chân thành và nhân ái trong bản chất con người đã làm nên những cuộc hành trình của loài người suốt hàng thế kỉ, chứng minh sự bất tử của sự sống và sự bất tử của nền văn minh nhân loại.
Trích đoạn sách Môi Cầu Vồng
“Vẫn là người bạn đã giúp đỡ ông lúc trước lại đem đến cho ông một tia hi vọng trong tình cảnh đen tối lúc bấy giờ, người bạn đó xoay sở chuẩn bị được cho ông một tấm vé tàu đến Thượng Hải. Khi âm thầm tiễn ông lên đường, người bạn nói: “Anh nhất định phải sống!” Nước mắt lưng tròng, ông hứa với bạn mình “nhất định phải sống”, “sống đến ngày ánh sáng hi vọng hiện ra cuối đường hầm”. Và thế là, ông đã vượt muôn trùng đại dương để đến Thượng Hải và sống trong tòa nhà bên sông này.”
“Các con phải đi học lại, Sonia và Vera của bố mẹ. Chúng ta có thể khuynh gia bại sản, nhưng kiến thức và trí tuệ thì không gì sánh nổi, mẹ con và bố quyết không thể để các con bỏ học.”
“Phòng khách của nhà Củ Ấu vẫn lộng lẫy và ngăn nắp như trước, nhưng Vera cảm thấy ở đây dường như thừa ra chút gì đó và cũng thiếu đi chút gì đó. Vài năm sau, khi Vera đến độ tuổi của Sonia bây giờ, nhớ về cảm giác quay lại nhà của Củ Ấu hôm đó, cô mới nhận ra rằng, ngôi nhà đã thừa ra một chút lạnh lẽo và thiếu đi một chút yên ổn. Lạnh lẽo và yên ổn, những thứ đó không thể nhìn thấy trong hiện thực, nhưng không hiểu vì sao, nó lại có thể tồn tại trong lòng người rõ mồn một đến nhường ấy. Cô cũng nhận ra, ngôi nhà nào cũng có sự sống của nó, sự sống ấy được kết nối từ hơi thở của những con người sống trong chính ngôi nhà đó.
Trong khoảnh khắc nhận ra được điều đó, Vera bỗng nghĩ đến cái đêm mà bố bị Đức quốc xã bắt đi, ngôi nhà vốn dĩ bình yên và thoải mái của họ ở Berlin cũng bỗng chốc trở nên trống rỗng.”
“Cô không muốn bất cứ ai biết rằng ở tuổi mười sáu, cô đã lặng lẽ sở hữu bí mật đẹp đẽ nhất của người con gái, như tia chớp quyến luyến sự bình yên của mái nhà, bông tuyết khát khao hơi ấm của mặt đất, cô bé Sonia ngày nào cũng thao thức nhớ thầm một cậu bé có tên gọi Simon.”
“Tuy nhiên, ngay cả khi thế gian này có biến thành địa ngục, thì trên trời cao kia vẫn có trăng tròn.” Ông Triệu chỉ ra ngoài cửa sổ. Vầng trăng bạc treo giữa trời đêm, ánh lên nền trời một màu xám xanh trong suốt. “Lúc này, cho dù ở Thượng Hải hay ở châu Âu xa xôi, chúng ta vẫn thấy cùng một vầng trăng. Chiến tranh có thể hủy hoại cuộc sống nhưng không thể hủy diệt khát vọng đoàn tụ và hòa bình của con người.”
“Những người Trung Quốc và Do Thái vốn không hề quen biết nhau, ấy vậy mà trong khoảnh khắc bom rơi đạn nổ này, họ bỗng như thân thuộc, kề vai sát cánh bên nhau như anh chị em trong một nhà, vô tư cứu trợ lẫn nhau, đến cả những người Trung Quốc cùng khổ nhất cũng lấy thức ăn và chạy đến trạm cứu hộ y tế.”
“Ngày lên đường mỗi lúc một cận kề, Vera cảm thấy trái tim mình ngày một thêm nặng trĩu. Cô nhớ bảy năm trước, khi rời khỏi Berlin, cô mới chỉ là một đứa trẻ ngu ngơ, trái tim cô còn như một con chim non thoăn thoắt chuyền cành, đập cánh một cái là có thể bay, không hề biết đằng sau mỗi chuyến đi xa là điều gì đang chờ đón, cũng chưa hề biết lao tâm khổ tứ để trù liệu cho cuộc sống sau này. Bảy năm sau ngày rời nhà ra đi, trái tim cô đã không còn nhẹ tênh như trước nữa, cô đã bắt đầu thấy trĩu nặng trong lòng, cũng bắt đầu có thêm nhiều kí ức và vấn vương, cô cần phải xếp đặt lại tất cả những nỗi niềm ấy sao cho thật gọn gàng, ngăn nắp.
Khi Vera rời khỏi nhà Như Dao, cô chợt hiểu những điều bố nói - Những thứ chúng ta mang theo dù vô hình, nhưng rất nặng. Có những thứ quả thực không nhìn thấy được, nhưng đủ chiếm trọn tim ta.”
“Tôi sống, chỉ là vì niềm hi vọng cháy bỏng trong tim, đó là chờ đến một ngày sẽ được cùng gia đình đoàn tụ. Vì điều đó, tôi cam tâm tình nguyện rạp mình trên mặt đất, bò trên cát sỏi đang cháy đỏ, những mong tìm được một chốn có thể cứu vớt gia đình mình, kể cả khi toàn thân tôi nhuốm máu. Tôi đã tưởng ngày đó sẽ đến... Nhưng, Chúa đã không thương xót tôi.
Sáu năm qua, tôi tựa vào hi vọng mà sống. Nhưng giờ đây, niềm hi vọng đã bị dập tắt, trái tim tôi cũng đã chết. Đáng sợ hơn cả mất đi mạng sống, đó chính là chết hẳn cõi lòng. Tôi cảm thấy cõi lòng mình đã chết, không còn dũng khí và ý nghĩa gì để sống tiếp nữa.
Kể từ đó, Simon biến mất khỏi thế gian này mãi mãi.”
“Cảnh tượng khủng khiếp cuối cùng cũng đập vào mắt tất cả. Khu phố trước mặt đã bị bom dập thành một đống đổ nát, vài ngôi nhà chưa sụp đang lung lay chực đổ, Vera bị đám đông đẩy về phía trước, cô loạng choạng, ngã nhào xuống một đống gạch ngói vụn nát.
Cô chạm vào một thứ gì đó mềm mềm, rụt tay lại nhìn xem, chỉ thấy một đám bê bết máu - và thứ mà cô vừa chạm phải là một đoạn chân hay tay không rõ nữa đã bị bom đánh văng ra!”
“Khi họ đến được trạm cứu trợ, người bị thương đủ mọi quốc tịch đã nằm la liệt đầy sân: người Trung Quốc, người Nga, người Do Thái, tất cả đều đang chờ cứu hộ. Vera nhìn thấy một người đàn ông Trung Quốc, trên người ngoài một chiếc quần đùi ra không còn mặc bất cứ gì khác, đến cả giày dép cũng không thấy tăm tích, bắp chân anh ta bê bết máu, nhưng anh ta chỉ chăm chăm nhìn vào cánh tay trái của mình. Lúc này Vera mới phát hiện ra, cánh tay trái của anh ta đã biến mất, vai trái anh ta đeo một dải băng trắng nhợt, vết thương đã được băng bó một cách vô cùng chuyên nghiệp.
Một phụ nữ Do Thái trẻ tuổi đang ngồi xổm bên cạnh người đàn ông Trung Quốc đó và thoăn thoắt băng bó cho một người bị thương khác.
Cả không gian ngập tràn một mùi máu tanh nồng khó chịu, ngoài những người bị thương đó ra còn có cả những xác chết được dẹp gọn vào trong góc, bên trên phủ ga trải giường và những tấm vải rách dính đầy vết máu.”