Khi chiến trường là nơi vang tiếng vó ngựa và bóng voi xung trận.
Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, kỵ binh và tượng binh luôn giữ một vị trí đặc biệt. Ngựa mang lại tốc độ và tính cơ động vượt trội; voi đem đến uy lực, sự dũng mãnh và khí thế áp đảo. Hai lực lượng ấy, từ cổ đại tới cận đại, từng nhiều lần xoay chuyển cục diện chiến tranh, trở thành biểu tượng của quyền uy và sức mạnh quân sự.
Với người Việt, hình ảnh voi chiến giương ngà và ngựa trận tung bờm không chỉ nằm trong sử sách. Chúng đã thấm vào ký ức dân tộc, trở thành biểu tượng của lòng quả cảm, của ý chí giữ nước và của khát vọng mở mang bờ cõi.
Hùng tượng, lương mã đưa độc giả trở lại những trận địa xưa, nơi voi và ngựa từng song hành cùng các tướng lĩnh, tạo nên những chiến công hiển hách.
Cuốn sách không chỉ là một công trình khảo cứu công phu, mà còn là hành trình khám phá thế giới quân sự của cha ông qua những chi tiết ít người biết:
- Cách người Việt tổ chức đội ngũ voi chiến qua từng thời kỳ
- Các phương pháp thuần dưỡng, huấn luyện voi và ngựa để tham chiến
- Chiến thuật vận dụng kỵ binh - tượng binh trong những trận đánh quyết định
- Các loại trang bị đặc thù: giáp voi, giáp ngựa, vũ khí kỵ sĩ…
- Những chiến lược đối phó với ngựa và voi của các quốc gia trong khu vực
Mỗi trang sách như một cánh cửa mở về quá khứ, nơi từng nhịp vó, từng tiếng rống của voi đã ghi dấu biết bao mốc son hào hùng.
Các phần chính của cuốn sách Hùng Tượng, Lương Mã - Những Câu Chuyện Về Kỵ Binh, Tượng Binh Trong Lịch Sử Việt Nam
Phần 1: Hùng tượng - Khảo cứu sâu sắc và toàn diện về tượng binh Việt Nam:
- Lịch sử hình thành và phát triển của lực lượng voi chiến
- Tổ chức, quy mô và cách vận hành đội tượng
- Nghệ thuật điều khiển voi trong chiến trận
- Trang bị dành cho voi và tượng binh
- Những biện pháp chống voi trong các trận đánh lịch sử
Phần 2: Lương mã - Tái hiện lực lượng kỵ binh Việt Nam qua các thời kỳ:
- Những biến chuyển về tổ chức kỵ binh qua các triều đại
- Vai trò của kỵ binh trong các chiến dịch lớn
- Chiến thuật đánh nhanh - đột kích - truy kích
- Huấn luyện ngựa và kỵ sĩ
- Trang bị đặc trưng của kỵ binh và các cách thức chống lại họ
Vì sao bạn nên sở hữu cuốn sách Hùng Tượng, Lương Mã - Những Câu Chuyện Về Kỵ Binh, Tượng Binh Trong Lịch Sử Việt Nam
Một góc nhìn hiếm có về lịch sử quân sự Việt Nam
Sách khai thác một chủ đề ít được viết thành hệ thống: tượng binh và kỵ binh - hai lực lượng từng góp phần định hình vận mệnh quốc gia.
Công phu - khoa học - dễ đọc
Nội dung được trình bày mạch lạc, nhiều dẫn liệu lịch sử nhưng vẫn giữ giọng kể gần gũi, giúp bạn đọc tiếp cận thông tin dễ dàng.
Cuốn sách dành cho mọi đối tượng yêu lịch sử
Từ người nghiên cứu, đam mê quân sự, đến độc giả phổ thông yêu văn hoá - lịch sử Việt Nam.
Một món quà ý nghĩa cho năm Bính Ngọ
Năm của Ngựa - biểu tượng của tốc độ, sức mạnh và sự bứt phá.
Trích đoạn sách Hùng Tượng, Lương Mã - Những Câu Chuyện Về Kỵ Binh, Tượng Binh Trong Lịch Sử Việt Nam
Súng và đạn xuất hiện ở Trung Quốc thế kỷ XIII. Tại Việt Nam, súng đạn đã được ghi chép muộn nhất vào thời mạt Trần. Tuy nhiên phải đến trận thành Đa Bang năm 1406, ta mới được chứng kiến tác dụng của chúng lên voi chiến. Quân Minh nhân đêm tối trèo lên chiếm tường thành và dùng súng, tên bắn bị thương voi của quân Hồ đang dàn trong thành. Lại thêm người Minh dùng mưu kế cũ của Tông Xác thời Lưu Tống là làm hình tượng sư tử giả để phủ lên ngựa chiến, cộng thêm hỗn loạn do đêm tối, khiến voi chiến quay đầu chạy. Trước uy lực vượt trội của súng đạn, da thịt sinh vật, dù là da dày như áo giáp của loài voi, đều bị xuyên phá. - Hùng tượng
Giảng Võ trường - thao trường và học viện quân sự lớn nhất thời Lê Sơ - cũng là nơi diễn ra những cuộc diễn tập của các vệ Tuần Tượng. Bên cạnh không gian và trang bị để diễn tập, ở đây còn có các chuồng voi lợp ngói, tức các công trình rất kiên cố, để voi đến tập trận có thể trú ngụ. Điều đó cho thấy sự quan tâm lớn của triều đình đến việc huấn luyện cũng như đảm bảo sức khỏe của voi trận. - Hùng tượng
Trong chiến trận, voi chiến thường được bố trí ở tuyến đầu hoặc hai bên sườn để phá vỡ đội hình đối phương. Khi xung phong, voi có thể dùng sức mạnh từ chân, vòi và ngà để hất tung, giẫm đạp binh lính và làm rối loạn hàng ngũ quân thù. Cặp ngà dài của voi (có thể dài tới hơn 4m như quan sát của Christoforo Borri) đóng vai trò như 1 cặp thương, được đâm hoặc chém với một lực mạnh mẽ hơn bất cứ dũng sĩ nào. Nhờ kích thước lớn, voi có thể lao xuyên qua các lớp phòng thủ, chọc thủng những đội hình bộ binh chặt chẽ. Tâm lý chiến cũng là một lợi thế quan trọng của voi trên chiến trường. Tiếng gầm rống, vóc dáng khổng lồ và sức mạnh hủy diệt của voi có thể khiến quân thù hoảng sợ và mất tinh thần chiến đấu ngay cả trước khi giao tranh thực sự diễn ra, nhất là đối với những đạo quân chưa từng đối mặt với voi. - Hùng tượng
Voi mà các đại tướng cưỡi còn đóng vai trò là một đài quan sát di động nhờ vào chiều cao vượt trội so với bộ binh và kỵ binh. Khi đứng trên lưng voi, chỉ huy có thể quan sát toàn bộ chiến trường, giúp họ đánh giá tình hình, điều phối binh lực và phát hiện các mối nguy từ xa. Đồng thời, nhờ đứng trên cao nên các hiệu lệnh, chỉ thị của chỉ huy có thể được bộ binh bên dưới thấy rõ. Vua Gia Long từng dặn tướng Nguyễn Văn Thành nên đứng sau quan sát và chỉ huy, tránh khinh suất xông lên chiến đấu: “Đại tướng là người chỉ huy ba quân, còn xông pha trận mạc, bẻ mũi giáo giặc là chức phận của tì tướng bên mình. Từ nay về sau, khi ra trận, nên chọn những con voi chiến cao lớn để cưỡi, nhờ đó tiện trên cao nhìn xuống dưới, ban phát chỉ thị. Những con voi giỏi chiến đấu thì phân bổ về các thuộc tướng, cho dũng sĩ lên trước giương cờ, chém giặc”. - Hùng tượng
Sử liệu sau đó không đề cập gì thêm về lực lượng này. Chúng tôi cho rằng triều Tiền Lê đã không thành công trong việc duy trì chúng, bởi trang bị giáp trụ cho cả ngựa đòi hỏi quốc lực rất lớn. Nhà nước không chỉ cần chế tạo, duy tu áo giáp mà còn cần nhân giống được những chiến mã đủ thể lực để mang nặng, và lại cần thường xuyên huấn luyện cho chúng quen với việc mang giáp. Chỉ những nước dồi dào sẵn nguồn ngựa như Đại Lý hoặc nước lớn như Tống mới có thể giảm bớt hoặc kham được chi phí đó.
Rõ ràng vài trăm thớt ngựa mà vua Lê Long Đĩnh bắt được năm 1008 không đủ để đáp ứng nhu cầu cho kỵ binh. Bằng chứng là năm 1012, vua Lý Thái Tổ lại phải sai người cướp đoạt ngựa từ thương buôn ở châu Vị Long. Nhà Lý bắt tới hơn một vạn ngựa, cho thấy quy mô lớn gấp nhiều lần cuộc chinh phạt của Lê Long Đĩnh 4 năm trước đó. Chúng tôi ngờ rằng vì lý do nào đó, nước Đại Cồ Việt khi ấy cấp thiết phải có được số lượng ngựa lớn như vậy, bất chấp các hoạt động đánh cướp này dẫn đến rủi ro nhãn tiền là sự bất mãn của các nhóm dân Tây Bắc. - Lương mã
Chúa còn từng nói rõ chủ trương của mình về kỵ binh: “Chúa thượng bảo thị thần: những thứ mà nhà binh trông cậy, thì sức ngựa đứng hàng đầu, diễn tập cũng là giảng võ đó, bèn lệnh sửa sang đường quan từ Vạn Xuân đến quán Thanh Kệ, xây đài Ngự Mã, lệnh quan văn võ cùng tả hữu mã đội thường thường tập luyện, bởi thế quân kỵ xạ đều tinh giỏi kỹ năng ấy”. - Lương mã
Không nghi ngờ gì, quân Tây Sơn đã tận dụng ưu thế có nhiều ngựa để thực hiện những cuộc hành quân chớp nhoáng, bên cạnh những phương tiện khác như voi và thuyền. Bù lại, dường như kỵ binh Tây Sơn không quá thiện chiến, chí ít là trong giai đoạn đầu của phong trào. Trong trận Cẩm Sa năm 1775, lực lượng của thủ lĩnh Nguyễn Nhạc và Tập Đình đã bị voi chiến và kỵ binh của Hoàng Đình Thể bên phe Trịnh phá vỡ158. Đáng tiếc hiện tại chúng tôi chưa tìm thấy tư liệu nào nói về kỵ binh thời Hoàng đế Quang Trung để đưa ra nhận định về số lượng và khả năng chiến đấu. - Lương mã
Về nguyên tắc, những phương pháp này ở các nền văn minh đều tương đồng. Ban đầu, ngựa được tiếp xúc với tiếng kèn trống, cồng chiêng, tiếng vũ khí va chạm, tiếng hò hét từ xa. Khi ngựa quen dần, cường độ tiếng ồn được tăng lên để mô phỏng chiến trường thực tế. Một số nơi còn sử dụng vải bay phấp phới hoặc dựng mô hình binh sĩ để ngựa quen với những di chuyển hỗn loạn. Ngựa còn được làm quen với lửa, và học vượt các chướng ngại vật thấp để quen với sự gồ ghề do nhiều xác chết và đổ nát trên chiến trường. Ngoài ra, ngựa cần được huấn luyện để đứng sóng đôi với đồng loại trong đội hình, do ngựa đi theo đàn sẽ không dễ bị hoảng loạn khi có mối đe dọa, cũng không dễ bị phản ứng dây chuyền làm cho bỏ chạy hàng loạt. - Lương mã
Như vậy, tấn công tầm xa từ trên lưng ngựa là 1 chiến thuật hữu hiệu của kỵ binh nên được liên tục duy trì qua tất cả các triều đại. Chúng tôi đánh giá rằng đây là cách đánh thường gặp hơn nhiều so với cận chiến bằng thương đao, vì nó giúp tận dụng ưu thế của kỵ binh là tốc độ và linh hoạt, giảm nguy cơ bị phản công, và tiêu hao địch hiệu quả hơn. Khi cận chiến, kỵ binh phải đến rất gần kẻ thù, dẫn đến dễ bị đánh trả hoặc kéo ngã khỏi lưng ngựa. Khi dùng vũ khí tầm xa, quân kỵ không cần tiếp xúc trực tiếp, giảm nguy cơ bị thương hoặc bị bao vây bởi bộ binh đông đảo. Quân kỵ có thể xạ kích rồi nhanh chóng chuyển vị trí mà không bị sa lầy vào một cuộc giằng co. Như thế, kỵ binh cũng không cần trang bị bảo hộ kín mít, mà họ có thể sử dụng tốc độ và cơ động để bảo vệ chính mình, giảm chi phí trang bị cho người lính. - Lương mã
Dù sử dụng binh khí gì, thì nhiệm vụ của kỵ binh cũng là lên trước bộ binh để quấy nhiễu không cho đối phương kịp lập đội hình, hoặc để tiêu hao số lượng, thể lực và sĩ khí đối phương trước khi bộ binh tiến lên phá trận.
Trong một số trường hợp, các tướng lĩnh chọn phá trận địch bằng cách xua quân mã xung kích trực diện để lợi dụng tốc độ và đà chạy của ngựa, thay vì xạ kích từ xa. Bộ binh đứng thành đội hình thường dễ mất tinh thần khi thấy cả đàn ngựa lao đến, được trợ uy bởi tiếng vó ngựa rầm rập và tiếng hò reo của kỵ sĩ. Đối mặt với sự khủng bố tâm lý đó, họ có thể bỏ chạy trước khi kỵ binh tiếp cận, khiến đội hình sụp đổ nhanh hơn. Khi kỵ binh lao vào đội hình đối phương, những hàng đầu tiên có thể bị ngựa xéo lên hoặc bị đẩy lui, tạo ra khoảng trống. Sau đó, các đợt kỵ binh tiếp theo hoặc bộ binh theo sau có thể lợi dụng lỗ hổng này để khoét sâu vào, phá vỡ tổ chức của quân địch.
Nhiệm vụ này thường dành cho thiết kỵ (kỵ binh hạng nặng), trang bị giáp trụ để có thể chịu đựng được va chạm và cận chiến. Như đã đề cập, từ thời Tiền Lê, các vua nước ta đã xin giáp trụ cho ngựa chiến từ nhà Tống. Thời Lê Thánh Tông, đã có chức vụ Thiết kỵ úy bên ban võ. Tuy nhiên chưa có bằng chứng trực tiếp và đáng tin cậy nào về một lực lượng thiết kỵ đông đảo ở Việt Nam mãi cho đến thời Nam Bắc triều.