Qua những công trình về văn hóa và ngôn ngữ Nam bộ, tiến sĩ Huỳnh Công Tín đã nghiên cứu những nét đặc trưng của đất và người vùng sông nước trong lao động sản xuất, sinh hoạt văn hóa, phong tục, tập quán… Cuốn sách “Chữ nghĩa tiếng Việt và bản sắc văn hóa Nam bộ” đã được đúc kết từ những nghiên cứu công phu và tâm huyết dành cho chữ Quốc ngữ và những nét riêng độc đáo của ngôn ngữ Nam bộ trong đời sống, thông qua các bài viết: “Chữ Quốc ngữ- Từ khởi sự đến hoàn thành”, “Ấn tượng “sông nước ruộng vườn” qua cách diễn đạt của người dân Nam bộ”, “Vốn từ Nam bộ trong quá trình Việt ngữ”, “Về tên gọi Sài Gòn”, “Tên gọi Cù lao Giêng”…
“Nếu tính từ năm 1620 thì đến năm 2020, chữ Quốc ngữ tròn 400 năm. Dòng thời gian không dài cho một tiến trình chữ viết đi từ khởi đầu chỉ ghi âm một vài tiếng đến hôm nay trở thành công cụ hoàn chỉnh ghi âm mọi cuộc giao tiếp, mọi loại văn bản từ các bình diện: tôn giáo, hành chính, văn chương, nghệ thuật, khoa học, chính trị… Nhưng cũng không ngắn, bởi quá trình gián đoạn khá lâu khi chữ viết vốn chỉ dùng trong nhà đạo lại trở thành chữ viết của quốc gia, dân tộc. Ở một đất nước vốn đã có chữ viết để dùng, tức chữ Hán, chữ Nôm, nên sự vào đời của chữ Quốc ngữ chịu nhiều phản ứng cản trở gay gắt, quyết liệt: từ thói quen, tâm lý sử dụng đến những phản ứng xã hội, tôn giáo, chính trị. Điều đáng mừng là đến hôm nay, không còn nhiều nghi ngờ về giá trị xã hội của chữ Quốc ngữ…”
“Cách nói của người dân ở một địa phương thường phản ánh những đặc trưng của môi trường họ đang sống. Nói khác đi, cảm nhận quen thuộc của họ bao giờ cũng được thể hiện qua cách diễn đạt. Với người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long thì môi trường sông nước, miệt vườn đã tạo cho họ một ấn tượng tương ứng. Cách diễn đạt đó tuy giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm; nhưng mang tính đặc trưng vùng miền, thường khiến người khác địa phương khó hiểu”.
(Huỳnh Công Tín)