Giới thiệu sách
Kinh Tế Học Vì Lợi Ích Chung
“Kinh tế học vì lợi ích chung: Làm thế nào để các quyết định kinh tế phụng sự số đông?” - cuốn sách được viết với mong muốn giải thích vì sao kinh tế học có vai trò quan trọng trong đời sống thường ngày và có thể giúp chúng ta xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn của Jean Tirole - một trong những nhà kinh tế học nổi tiếng nhất thế giới hiện nay. Ông từng được trao giải Nobel Kinh tế năm 2014 nhờ các nghiên cứu về thị trường và cách nhà nước có thể điều tiết để chúng vận hành hiệu quả hơn.
Trong cuốn sách này, Tirole không chỉ nói chuyện hàn lâm mà ông muốn truyền tải đến người đọc rằng: kinh tế học không phải chỉ xoay quanh những con số khô khan hay biểu đồ phức tạp. Nó chính là công cụ để chúng ta trả lời câu hỏi: làm thế nào để xã hội phát triển công bằng, bền vững, và mọi người đều được hưởng lợi? Ông gọi đó là “lợi ích chung” - thứ mà cả cộng đồng cùng hướng tới, vượt lên trên lợi ích cá nhân hay nhóm nhỏ.
Để giúp người đọc hiểu rõ, Tirole đưa ra một tình huống có thể được gọi là một thí nghiệm tưởng tượng như sau: Bạn sắp được sinh ra trong một xã hội, nhưng không biết mình sẽ là ai: giàu hay nghèo, khỏe mạnh hay yếu thế, sống ở thành thị hay nông thôn. Bạn hoàn toàn bị che mắt bởi một “bức màn vô minh” (veil of ignorance). Trong tình huống đó, bạn sẽ muốn xã hội ấy được tổ chức thế nào để dù bạn rơi vào hoàn cảnh nào cũng có thể sống một cuộc đời xứng đáng? Đó chính là cách suy nghĩ về “lợi ích chung”. Từ góc nhìn này, Tirole dẫn người đọc đi qua nhiều vấn đề trọng yếu.
Đầu tiên, là câu chuyện biến đổi khí hậu. Ai cũng biết cắt giảm khí thải là cần thiết, nhưng không ai muốn mình là người chịu thiệt trước. Các quốc gia thường có xu hướng chờ người khác hành động trước để mình được hưởng lợi mà không phải hy sinh. Tirole gọi đây là tình trạng ngồi không hưởng lợi. Ông cho rằng cách giải quyết tốt nhất là áp dụng một mức giá carbon toàn cầu, buộc những ai gây ô nhiễm phải trả đúng chi phí mà họ tạo ra cho xã hội. Như vậy, con người và doanh nghiệp sẽ có động lực chuyển sang công nghệ sạch. Nhưng ông cũng thừa nhận, việc các nước cùng ngồi lại cam kết và tuân thủ là điều không dễ dàng chút nào.
Thứ hai, kinh tế số và đổi mới sáng tạo. Sự nổi lên của các tập đoàn công nghệ toàn cầu, vốn kiểm soát lượng dữ liệu khổng lồ và sở hữu hiệu ứng mạng lưới mạnh mẽ, đặt ra thách thức chưa từng có cho cạnh tranh và chính sách thuế. Tirole phân tích quyền sở hữu dữ liệu, cách thức thu thuế công bằng trong nền kinh tế số, cũng như rủi ro từ việc một số ít công ty ngôi sao chi phối toàn bộ thị trường. Ông cảnh báo nếu không có khung pháp lý thích hợp, sự tập trung quyền lực này có thể làm xói mòn lợi ích của người tiêu dùng và cản trở đổi mới.
Bên cạnh đó, cuốn sách cũng nói khá nhiều về thị trường lao động. Với kinh nghiệm quan sát ở Pháp, Tirole nhận ra một nghịch lý: nhiều quy định bảo vệ việc làm nghe có vẻ nhân văn, nhưng khi áp dụng lại khiến các doanh nghiệp chần chừ hơn trong việc tuyển dụng. Kết quả là nhiều lao động phải làm hợp đồng ngắn hạn, bấp bênh hơn. Theo ông, thay vì giữ luật quá cứng nhắc, cần thiết kế hệ thống linh hoạt hơn: doanh nghiệp dễ dàng tuyển và sa thải, nhưng đồng thời nhà nước phải bảo đảm an sinh xã hội và đào tạo lại cho người lao động. Cách tiếp cận này giúp thị trường năng động mà vẫn bảo vệ được con người.
Và có một phần quan trọng khác là vấn đề cạnh tranh. Tirole vốn nổi tiếng nhờ nghiên cứu về tổ chức công nghiệp và độc quyền, nên ông có rất nhiều điều để nói. Ông nhấn mạnh rằng cạnh tranh không phải lúc nào cũng tự nhiên tồn tại. Ở những ngành có hiệu ứng mạng lưới mạnh, như viễn thông hay nền tảng kỹ thuật số, một công ty có thể nhanh chóng chiếm lĩnh toàn bộ thị trường. Nếu không có sự điều tiết, người tiêu dùng sẽ bị thiệt thòi, còn doanh nghiệp mới thì khó có cơ hội vươn lên. Do đó, chính sách công cần giữ thế cân bằng: để các doanh nghiệp có động lực đầu tư, nhưng cũng phải ngăn ngừa việc họ lạm dụng sức mạnh.
Bố cục cuốn sách được chia làm 5 phần:
- Phần I: Kinh tế học và xã hội
- Phần II: Nghề nghiệp của nhà kinh tế học
- Phần III: Bộ khung thể chế cho nền kinh tế
- Phần IV: Những thách thức lớn về kinh tế vĩ mô
- Phần V: Thách thức về công nghiệp
Dù là một nhà khoa học hàng đầu, nhưng Tirole có cách viết rất mạch lạc, dễ hiểu, gần gũi với người đọc phổ thông. Ông thường xuyên lấy ví dụ thực tế - từ môi trường, công nghệ, cho đến đời sống lao động - để minh họa nên gợi mở nhiều điều thiết thực, với những vấn đề gần gũi với mọi người. “Kinh tế học vì lợi ích chung” không phải là một cuốn sách kinh tế khô khan mà là lời mời gọi độc giả cùng suy ngẫm: làm sao để kinh tế học phục vụ con người, để thị trường và chính sách cùng nhau hướng tới một xã hội công bằng và bền vững hơn. Đây là một cuốn sách đáng đọc cho bất cứ ai quan tâm đến kinh tế, chính sách công và tương lai của cộng đồng mình.
Đánh giá, nhận xét của chuyên gia dành cho Kinh Tế Học Vì Lợi Ích Chung
“Một cuốn sách bắt buộc phải đọc đối với bất kỳ ai muốn hiểu nền kinh tế ngày nay.” - Olivier Blanchard, nguyên Kinh tế trưởng Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
“Một phê bình mang tính xây dựng đối với các nhà kinh tế học, đồng thời là sự bảo vệ mạnh mẽ cho chính lĩnh vực mà họ nghiên cứu.” - Martin Sandbu, Financial Times
“Một bản tóm lược đầy tham vọng nhưng dễ tiếp cận về những ý tưởng của [Tirole] liên quan đến vai trò thích hợp của các nhà kinh tế học và giá trị các ý tưởng của họ trong việc định hướng chính phủ, doanh nghiệp và đời sống xã hội... Tirole có một phong cách kiên nhẫn, giàu tính giải thích.” - Philip Delves Broughton, Wall Street Journal
“Giải thích bằng ngôn ngữ thẳng thắn, dễ hiểu về việc các nhà kinh tế học hàn lâm làm gì, cách họ suy nghĩ về xã hội và hành vi con người, cũng như những lời khuyên mà họ thường đưa ra cho chính phủ trước những thách thức lớn nhất.” - Foreign Affairs
“Tôi dự đoán Economics for the Common Good của Jean Tirole sẽ sánh ngang với Capital in the Twenty-First Century của Thomas Piketty, trở thành hai cuốn sách quan trọng và được đọc rộng rãi nhất của các nhà kinh tế trong thế kỷ này. Với cuốn sách tuyệt vời, đầy trí tuệ của Tirole, thế giới sẽ trở thành một nơi tốt đẹp hơn.” - Glenn Loury, Đại học Brown
“Jean Tirole là trường hợp ngoại lệ hiếm hoi: một nhà kinh tế đoạt giải Nobel tin rằng ông có trách nhiệm phải nói một cách rõ ràng về những mối quan tâm của những người không phải là nhà kinh tế. Cuốn sách xuất sắc này cho thấy giá trị của tư duy kinh tế cẩn trọng đối với các vấn đề từ thất nghiệp đến biến đổi khí hậu. Nó nên là sách bắt buộc đối với các nhà hoạch định chính sách, nhưng cũng dành cho bất kỳ ai muốn hiểu nền kinh tế ngày nay.” - Olivier Blanchard, nguyên Kinh tế trưởng Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
“Jean Tirole đặt đóng góp thiết yếu của kinh tế học và các nhà kinh tế vào vị trí trung tâm trong việc nuôi dưỡng hy vọng và khát vọng chung của chúng ta đối với xã hội mà mình đang sống. Đây là một cuốn sách thiết yếu với thông điệp đầy hy vọng dành cho bất kỳ ai quan tâm đến những thách thức kinh tế chủ chốt mà tất cả chúng ta phải đối mặt ngày nay.” - Diane Coyle, tác giả GDP: A Brief but Affectionate History
“Kinh tế học vì lợi ích chung là một cuốn sách được viết duyên dáng, sâu sắc, mang đến những nghịch lý nổi bật và giàu sức gợi mở về hành vi kinh tế.” - Harold James, Đại học Princeton
Trích dẫn sách Kinh Tế Học Vì Lợi Ích Chung
Tr 49: TRÁCH NHIỆM CỦA MỌI NGƯỜI
Hiểu biết của mỗi chúng ta về kinh tế, cũng giống như hiểu biết về khoa học và địa chính trị, sẽ ảnh hưởng tới những lựa chọn mà chính quyền của chúng ta thực hiện. Có vẻ chúng ta cùng đồng ý với nhận định của triết gia Joseph de Maistre rằng “mỗi quốc gia đều có một chính phủ mà nó đáng có.” Điều đó có thể là đúng - ngay cả khi, như một triết gia khác là André Comte-Sponville đã từng nhận xét, việc giúp đỡ quan chức chính phủ trên tinh thần xây dựng sẽ tốt hơn việc liên tục chỉ trích họ.
Tôi biết rằng chúng ta có những chính sách kinh tế mà chúng ta đáng có, và chừng nào trong công chúng vẫn còn sự thiếu hiểu biết về kinh tế học, thì chừng đó các chính trị gia vẫn còn cần tới nhiều dũng khí để đưa ra những quyết định đúng đắn về kinh tế. Nhiều chính khách thường do dự với việc đưa ra những quyết sách không thuận ý dân, bởi họ lo sợ sẽ không lấy được lòng dân trong các cuộc bầu cử. Vậy nên, nếu công chúng có hiểu biết rõ ràng hơn về các cơ chế kinh tế, thì đó sẽ là cái lợi cho xã hội. Chúng ta muốn mọi người cùng bỏ công sức học hỏi và nâng cao hiểu biết để có thể ủng hộ những chính sách đem lại nhiều lợi ích hơn, nhưng chúng ta lại thường chẳng muốn tự bỏ công sức để làm điều đó. Chúng ta vẫn còn thiếu sự ham học, và do đó chúng ta thường cư xử như những “kẻ ngồi không hưởng lợi”, trông chờ người khác cất công tìm hiểu về các cơ chế kinh tế thay vì tự làm điều tương tự.
Trong cuốn sách The Age of Diminished Expectations: U.S. Economic Policy in the 1990s (Thời đại kỳ vọng giảm sút: Chính sách kinh tế Mỹ trong thập niên 1990, xuất bản bởi MIT Press năm 1997), tác giả Paul Krugman, người từng nhận giải Nobel và cũng là một trong số ít những nhà kinh tế học từng thành công trong việc lý giải những khái niệm kinh tế khó hiểu, đã miêu tả tình hình như sau:
Có ba kiểu viết lách trong lĩnh vực kinh tế học: kiểu “chữ cái Hy Lạp”, kiểu “lên-xuống” và kiểu “sân bay”.
Kiểu chữ cái Hy Lạp - là kiểu viết hàn lâm, nặng về lý thuyết và công thức toán học - cũng là kiểu mà các giáo sư sử dụng để giao tiếp với nhau. Giống như bất kỳ lĩnh vực học thuật nào khác, ngành kinh tế học cũng có những kẻ dốt nát và giả tạo, thích sử dụng ngôn ngữ phức tạp để che đậy sự tầm thường trong nội dung mà họ viết; và tất nhiên có cả những học giả uyên bác, biết vận dụng thuật ngữ chuyên ngành để diễn đạt hiệu quả những ý tưởng chuyên môn của họ. Tuy nhiên đối với những người chưa được đào tạo chuyên sâu về kinh tế học, ngay cả nội dung dễ hiểu nhất viết theo kiểu chữ cái Hy Lạp cũng không thể tiêu hóa được. (Một nhà bình luận của ấn phẩm Village Voice đã không may gặp phải nội dung mà tôi viết theo kiểu chữ cái Hy Lạp, và anh ta đã nhận xét rằng đó là “một mớ những phương trình, biểu đồ và công thức rối rắm... một thể loại ngôn ngữ tối tăm, mù mịt hơn nhiều so với cả những giáo lý và triết học thời trung cổ.”)
Kiểu lên-xuống trong kinh tế học là kiểu mà chúng ta thường gặp trên các trang báo kinh doanh, hoặc là trên tivi. Nội dung của kiểu viết này chỉ toàn dành cho những số liệu mới nhất, nên nó mới được đặt tên như vậy. “Dựa theo thống kê mới nhất, lượng nhà cửa mới được khởi công đang tăng lên, cho thấy sức mạnh bất ngờ của nền kinh tế. Còn giá trái phiếu thì lại giảm vì tin tức này...” Kiểu viết này vốn nổi tiếng là vô cùng nhàm chán, và cái danh tiếng ấy hoàn toàn có cơ sở. Để viết được hay theo kiểu này là cả một nghệ thuật - mọi thứ đều có thể trở nên hài hòa và hoàn hảo, kể cả những mẩu tin dự báo kinh tế vụn vặt. Nhưng thật không may là phần lớn mọi người đều tưởng rằng kiểu viết lên-xuống này là kiểu viết của những nhà kinh tế học.
Cuối cùng, kiểu sân bay chính là kiểu được ưa chuộng nhất trong kinh tế học. Những cuốn sách viết theo kiểu này thường được trưng ở vị trí tốt tại các hiệu sách trong sân bay, nơi mà các thương gia đang chờ chuyến bay sẽ tìm mua. Hầu hết những cuốn sách này đều dự báo về thảm họa nào đó: một cuộc đại suy thoái mới, các tập đoàn đa quốc gia từ Nhật Bản sẽ moi ruột nền kinh tế của chúng ta, đồng tiền của chúng ta sẽ sụp đổ. Một số ít lại có góc nhìn ngược lại, lạc quan vô bờ bến: những công nghệ mới hoặc trường phái kinh tế học trọng cung sắp sửa đưa chúng ta tới một giai đoạn phát triển kinh tế chưa từng có. Dù là bi quan hay là lạc quan, thì những nội dung kinh tế học kiểu sân bay vẫn thường có tính giải trí, hiếm khi có đầy đủ thông tin và không bao giờ thực sự nghiêm túc.
Chúng ta đều phải chịu trách nhiệm về tầm hiểu biết ít ỏi của bản thân đối với những hiện tượng kinh tế, về ý định chỉ tin vào những gì mà chúng ta muốn tin, về sự lười biếng tìm tòi mở mang trí tuệ và về các thiên kiến trong nhận thức. Tất cả chúng ta đều có thể hiểu về kinh tế học, nhưng như tôi đã chỉ ra ở trên, những sai lầm trong lý luận của mỗi người chưa chắc đã xuất phát từ IQ hay học vấn của họ.
Hãy thừa nhận rằng: việc xem phim, đọc truyện ly kỳ hay tin tức giật gân... đều dễ dàng hơn việc đâm đầu vào một cuốn sách kinh tế học (đây không phải là lời phê phán: chính bản thân tôi cũng đọc rất ít về khoa học khí hậu, công nghệ sinh học, y tế hay dược phẩm, và các lĩnh vực khoa học khác có ảnh hưởng tới việc xây dựng chính sách công). Khi chúng ta có đủ quyết tâm để tìm hiểu, thì ta lại trông chờ rằng sách vở về kinh tế học phải dễ hiểu, phải được diễn đạt một cách đơn giản quá đà - giống như thứ mà Paul Krugman đã gọi là những cuốn sách “kinh tế học sân bay”. Trong mọi lĩnh vực nghiên cứu học thuật, việc vượt qua được lớp vỏ bọc bên ngoài luôn đòi hỏi nhiều nỗ lực, ít định kiến hay thiên kiến, và nhiều quyết tâm trong công cuộc đi tìm chân lý. Đó là cái giá mà chúng ta buộc phải trả, nếu như muốn có được những chính sách mà chúng ta xứng đáng được hưởng.
Tr 69: CÔNG PHẪN, THỨ CÔNG CỤ TỒI TRONG ĐÁNH GIÁ ĐẠO ĐỨC
Ngoài việc xuất hiện trong những tình huống nan giải về đạo đức kia, sự kiêng dè và e ngại còn thay đổi theo thời gian và không gian. Như tôi đã đề cập ở đầu chương, có thể minh họa cho việc này bằng sự thay đổi về thái độ của xã hội đối với bảo hiểm nhân thọ và trả lãi cho tiền vay, hai hoạt động xưa kia từng bị cộng đồng coi là vô đạo đức. Ở lĩnh vực kinh tế học, chuyện mua quyền phát thải từng bị ghê tởm vào 20 năm trước đây, nhưng giờ nó ngày càng trở nên phổ biến khi mà người ta hiểu ra rằng nó đóng góp vào công cuộc bảo vệ môi trường. Chúng ta có thể lo ngại về sự bành trướng của nền kinh tế thị trường sang nơi được gọi là khu vực phi thương mại, nhưng các chính sách kinh tế không được phân chia rõ ràng theo bản đồ thành hai vùng thương mại và phi thương mại - hoặc nói theo kiểu của Kant là: vùng thuộc về thị trường và vùng thuộc về các giá trị cao hơn. Lý luận đạo đức không thể giúp phân định rạch ròi các chính sách được.
Chúng ta sẽ thấy dư luận phẫn nộ khi chứng kiến sự bất công hoặc những hành vi thiếu tôn trọng mạng sống con người. Sự công phẫn thường là dấu hiệu cho thấy có vấn đề tồn tại trong hành vi của cá nhân hoặc chính sách công. Dù vậy, công phẫn cũng có thể là một nhà cố vấn tồi. Nó có thể dẫn tới việc áp đặt tiêu chuẩn cá nhân lên trên quyền tự do của người khác, và đôi khi nó còn dẫn tới việc suy xét không thấu đáo.
Như Jonathan Haidt, một giáo sư tâm lý ở Đại học New York, đã vạch ra, chuẩn mực đạo đức không chỉ áp dụng cho các yếu tố ngoại ứng mà còn cả khi chúng ta lên án những hành vi không có nạn nhân có thể nhận diện. Hãy nhớ rằng chưa đầy 50 năm trước, rất nhiều người vẫn không chấp nhận việc quan hệ tình dục đồng giới, hoặc với chủng tộc khác (như ở Mỹ trong quá khứ gần đây), hoặc quan hệ với phụ nữ độc thân (nhưng không bao gồm nam giới độc thân). Ai là nạ nhân của những hành vi từng bị coi là kinh tởm này? Nếu không xác định rõ ràng các tác động ngoại ứng, thì việc một số người khăng khăng áp đặt tiêu chuẩn của họ sẽ dễ dàng chà đạp lên quyền tự do của người khác.
Do vậy, cảm giác ghê tởm hay công phẫn không phải là thứ đáng tin cậy để sử dụng khi đánh giá đạo đức. Chúng chỉ nên được sử dụng để vạch cho chúng ta con đường tiến tới, hoặc để báo hiệu có gì đó không ổn trong xã hội hoặc trong hành vi của bản thân, và chỉ vậy mà thôi. Điều cốt yếu là chúng ta phải đặt nghi vấn với những cảm xúc đạo đức mãnh liệt đó, và đảm bảo rằng đã suy tính cẩn trọng về chúng khi xây dựng chính sách công. Chúng ta phải tìm cách hiểu rõ hơn về nền tảng của đạo đức cũng như nỗi sợ của chúng ta về việc thương mại hóa một số lĩnh vực. Đó chính là điều mà cộng đồng học thuật đang nỗ lực thực hiện.
Tr 138: CÁC NHÀ KINH TẾ HỌC: CÁO HAY LÀ NHÍM?
Triết gia người Anh Isaiah Berlin đã mở đầu cuốn sách nhỏ The Hedgehog and the Fox (Con nhím và con cáo) bằng cách trích dẫn một mẩu thơ của nhà thơ Hy Lạp Archilochus: “Con cáo biết rất nhiều điều, còn nhím chỉ biết một điều lớn lao.”
Bốn mươi năm trước, gần như tất cả mọi nhà kinh tế học đều là những con nhím. Nói ngắn gọn (và có lẽ hơi không công bằng) thì chúng ta cho rằng họ hiểu rất rõ mô hình thị trường cạnh tranh - mô hình hoàn thiện nhất về mặt trí tuệ trong lĩnh vực này. Tất nhiên họ nhận thức được những hạn chế của mô hình này, và do đó tìm kiếm thêm những khả năng khác, nhưng lại không có đủ khung kiến thức để làm như vậy. Tương đương với lý thuyết về các loại khí lý tưởng, trong kinh tế học, mô hình cạnh tranh cũng được áp dụng cho rất nhiều kiểu tình huống, ví dụ như sự biến động của thị trường, tài chính, hoặc thương mại quốc tế.
Kể từ khi khái niệm “cân bằng tổng thể” ra đời thì lý thuyết kinh tế đã được cải tiến rất nhiều. Nó đã học cách phân tích sự cạnh tranh không hoàn hảo trong một thị trường có số lượng người bán hoặc người mua ít, và từ đó suy ra các quy tắc để điều tiết sự cạnh tranh. Nó có thể kết hợp sự bất đối xứng thông tin về giá cả và chất lượng hàng hóa (hoặc thậm chí là sự thiếu hiểu biết về các đối tác thương mại tiềm năng) để dự đoán những thất bại của thị trường và đề xuất biện pháp khắc phục. Nó đã học được cách giải thích những sai lệch quan sát được từ quá trình ra quyết định hợp lý. Giờ đây nó đã có thể phân tích sự tách biệt trong một doanh nghiệp giữa quyền sở hữu (thuộc về nhà đầu tư) và quyền kiểm soát thực sự (thường thuộc nằm trong tay các quản lý, những người có thể có lợi ích khác với các nhà đầu tư). Việc đưa những “ma sát kinh tế” này vào trong mô hình cũ không phải là việc dễ, nhưng đã đem lại thành quả. Các mô hình đã trở nên phức tạp hơn (chúng phải tính toán tới nhiều yếu tố hơn), nhưng chúng giúp ta nghiên cứu những câu hỏi mới, cần thiết cho chính sách công và chiến lược kinh doanh.
Ngay cả trong thế giới loài cáo thịnh hành ngày nay, một số nhà kinh tế học có xu hướng giống cáo hơn, trong khi những người khác lại giống nhím hơn. Cả cuộc đời của loài nhím được dẫn dắt bởi một ý tưởng duy nhất, và chúng thường cố gắng thuyết phục những kẻ được chúng bảo trợ đi theo con đường tương tự. Chúng có thể liều mình để bảo vệ thứ được chúng coi là quan trọng, thậm chí coi là tôn chỉ cho tất cả. Ngược lại, loài cáo lại nghi ngờ các lý thuyết phổ quát và thường thử áp dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Họ chuyển từ hướng nghiên cứu này sang hướng nghiên cứu khác khi nghĩ rằng hướng đầu tiên đã đạt đến ngưỡng mà lợi ích bắt đầu suy giảm.
Cả hai giống loài này đều không ưu việt hơn nhau. Khoa học cần có những con nhím, là những người kiên trì đeo bám một ý tưởng dù nó không được ưa chuộng, và tiếp tục đào sâu theo một hướng nhất định dù các học giả khác cho rằng nghiên cứu chuyên sâu như vậy không còn thu được kết quả cao; khoa học cũng cần cả những con cáo, là những người tập hợp nhiều kiểu kiến thức khác nhau và mở ra các lĩnh vực nghiên cứu mới. Hơn nữa, kinh nghiệm dường như cho thấy rằng thế giới nghiên cứu có phần thưởng dành cho cả hai loại người này.
Trong các cuộc tranh luận công khai, làm nhà kinh tế học kiểu cáo hay kiểu nhím sẽ tốt hơn? Chúng ta biết rất ít về chủ đề này, nhưng công trình của Philip Tetlock - một nhà tâm lý học tại Đại học Pennsylvania, về các chuyên gia khoa học chính trị thật sự rất hấp dẫn. Tetlock đưa ra hai câu trả lời cho câu hỏi này. Câu trả lời thứ nhất là về việc tiếp nhận các ý tưởng trong cuộc tranh luận công khai. Loài nhím chỉ gây khó chịu cho những ai không đồng tình, còn loài cáo thì gây khó chịu cho tất cả mọi người - bằng cách nêu ra rất nhiều ý tưởng, cáo chẳng nể mặt ai cả. Việc loài cáo ôm đồm nhiều thông số như vậy thường phá hoại chính luận điểm của họ. Họ gây ra sự mất kiên nhẫn đối với khán giả, những người muốn rút ra được sự chắc chắn từ cuộc tranh luận. Vậy nên những con cáo thường chẳng được mời tới trường quay truyền hình (thực tế càng tranh luận gắt gao thì loài cáo càng đưa ra nhiều ý kiến, và đôi khi chúng phải tự bắt bản thân chỉ được đưa ra một ý kiến). Giới truyền thông thích loài nhím hơn.
Câu trả lời thứ hai của Tetlock đến từ việc ông đã nghiên cứu các dự đoán của 284 chuyên gia khoa học chính trị trong gần 20 năm. Tổng cộng ông đã yêu cầu họ đưa ra 28.000 dự đoán: chẳng hạn như về sự sụp đổ của Liên Xô, về khả năng tan rã của một quốc gia, về cuộc chiến tranh ở Iraq và sự suy yếu của các đảng phái chính trị hùng mạnh. Dựa trên 14 tiêu chí, ông đã chia các chuyên gia ấy thành loài cáo và loài nhím.30 Tetlock cũng xếp loại các chuyên gia theo quan điểm chính trị. Phương diện này cũng không hoàn toàn tách biệt khỏi kiểu nhận thức của họ. Không có gì ngạc nhiên khi loài cáo ít có khả năng mang quan điểm chính trị cực đoan hơn loài nhím. Thế nhưng quan điểm chính trị cũng không gây ảnh hưởng nhiều tới hiệu quả công việc họ làm. Chẳng hạn như hồi những năm 1980, các chuyên gia cánh tả cứ mải lo chuyện Reagan bị đánh giá thấp về trí tuệ, trong khi những người cánh hữu lại bị ám ảnh bởi mối đe dọa từ Liên Xô. Yếu tố quyết định nằm ở kiểu nhận thức. Loài cáo thường đưa ra các dự đoán chuẩn xác hơn nhiều. Họ nhận thức rõ hơn về xác suất (không phải là không đáng kể) mà mình sai. Ngược lại, Tetlock chọn Marx và những người theo chủ nghĩa tự do cá nhân 31 làm ví dụ về loài nhím, những người bám vào thế giới quan đơn giản và có những dự đoán lớn lao không bao giờ trở thành hiện thực. Không dễ để đưa ra kết luận chắc chắn từ công trình nghiên cứu rất sáng tạo này, mặc dù phạm vi nghiên cứu khá lớn. Chúng ta cần thêm những nghiên cứu khác, trong nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
Thông tin tác giả Jean Tirole
Jean Tirole (sinh năm 1953) là nhà kinh tế học người Pháp, đoạt giải Nobel Kinh tế năm 2014. Ông là giáo sư tại Trường Kinh tế Toulouse, từng giảng dạy tại MIT và có học vị tiến sĩ từ MIT và Đại học Paris-Dauphine.Tirole nổi bật trong các lĩnh vực: tổ chức công nghiệp, lý thuyết trò chơi, tài chính doanh nghiệp và kinh tế học hành vi. Ông là tác giả của nhiều công trình quan trọng như The Theory of Industrial Organization và Kinh tế học vì lợi ích chung. Các nghiên cứu của ông giúp định hình chính sách cạnh tranh và quy định ở các thị trường hiện đại.
Sách Kinh Tế Học Vì Lợi Ích Chung của tác giả Jean Tirole, có bán tại Nhà sách online NetaBooks với ưu đãi Bao sách miễn phí và Gian hàng NetaBooks tại Tiki với ưu đãi Bao sách miễn phí và tặng Bookmark